Thành phần
Hoạt chất: Insulin glulisine (mỗi bút tiêm 3ml chứa 300 đơn vị hoạt chất insulin glulisine (tương đương 10,47mg)).
Tá dược: m-cresol, trometamol, natri clorid, polysorbate 20, natri hydroxyd, acid hydrochloric đậm đặc, nước pha tiêm.
Công dụng (Chỉ định)
Điều trị đái tháo đường ở người lớn, thiếu niên, trẻ em từ 6 tuổi trở lên, khi cần điều trị insulin.
Cách dùng - Liều dùng
Liều dùng:
Hiệu lực của chế phẩm được thể hiện bằng đơn vị. Những đơn vị này áp dụng riêng cho Apidra và không giống IU hoặc các đơn vị dùng để biểu hiện hiệu lực của các insulin analog khác (xem mục Đặc tính dược lực học).
Apidra nên được sử dụng trong các phác đồ có insulin tác động trung bình/insulin tác động kéo dài/insulin nền analog và có thể dùng chung với các thuốc hạ glucose máu dạng uống.
Liều Apidra phải được hiệu chỉnh cá thể hóa.
Nhóm bệnh nhân đặc biệt:
Suy thận: Các đặc tính dược động học của insulin glulisine nhìn chung vẫn được duy trì ở bệnh nhân suy thận. Tuy nhiên, nhu cầu insulin có thể giảm trong trường hợp suy thận (xem mục Đặc tính dược động học).
Suy gan: Các đặc tính dược động học của insulin glulisine chưa được nghiên cứu trên bệnh nhân suy giảm chức năng gan. Ở bệnh nhân suy gan, nhu cầu insulin có thể giảm vì giảm khả năng tân tạo glucose và giảm chuyển hóa insulin.
Người cao tuổi: Có dữ liệu dược động học (không nhiều) trên bệnh nhân đái tháo đường lớn tuổi. Suy giảm chức năng thận có thể dẫn đến giảm nhu cầu insulin.
Quần thể bệnh nhi: Hiện chưa đủ thông tin lâm sàng về sử dụng Apidra ở trẻ em dưới 6 tuổi.
Cách dùng:
Dung dịch tiêm Apidra SoloStar 100 đơn vị/ml trong bút tiêm nạp sẵn chỉ thích hợp để tiêm dưới da. Nếu cần dùng ống tiêm, tiêm tĩnh mạch hoặc bơm truyền, nên sử dụng lọ đựng thuốc tiêm (xem mục Cảnh báo và thận trọng khi dùng thuốc).
Nên tiêm dưới da Apidra SoloStar 0 - 15 phút ngay trước hoặc ngay sau bữa ăn.
Apidra SoloStar nên được tiêm dưới da vào các vùng thành bụng, bắp đùi hoặc cơ delta. Vị trí tiêm trong mỗi vùng (thành bụng, bắp đùi hoặc cơ delta) nên được xoay vòng từ lần tiêm này đến lần tiêm kế tiếp. Tỷ lệ hấp thu, và kéo theo là khởi phát tác động và thời gian tác động, có thể bị ảnh hưởng bởi vị trí tiêm, vận động và các biến số khác. Tiêm dưới da ở thành bụng đảm bảo hấp thu nhanh hơn một chút so với các vị trí tiêm khác (xem mục Dược động học).
Cần thận trọng để không tiêm vào mạch máu. Không được xoa bóp vị trí tiêm sau khi tiêm. Bệnh nhân phải được hướng dẫn để sử dụng kỹ thuật tiêm đúng cách.
Trước khi sử dụng SoloStar, phải đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trên tờ thông tin sản phẩm trong bao bì.
Không sử dụng trong trường hợp sau (Chống chỉ định)
Quá mẫn với hoạt chất hoặc bất kỳ tá dược nào được liệt kê trong mục thành phần tá dược.
Hạ đường huyết.
Lưu ý khi sử dụng (Cảnh báo và thận trọng)
Nên có sự giám sát y khoa chặt chẽ nếu chuyển bệnh nhân sang một dạng hoặc nhãn hiệu insulin khác. Có thể cần thay đổi liều nếu có thay đổi về hàm lượng, nhãn hiệu (nhà sản xuất), loại (thường, NPH, chậm, tác dụng kéo dài, vv.), nguồn gốc (động vật, người, analog) và/hoặc phương pháp sản xuất. Có thể cần điều chỉnh các thuốc giảm glucose máu dạng uống dùng kèm.
Tăng đường huyết:
Sử dụng liều không đủ hoặc ngưng điều trị, đặc biệt ở những bệnh nhân đái tháo đường phụ thuộc insulin, có thể dẫn tới tăng đường huyết và nhiễm toan ceton do đái tháo đường, những tình trạng có nguy cơ dẫn đến tử vong.
Ha đường huyết:
Thời gian xuất hiện hạ đường huyết phụ thuộc vào hồ sơ tác động của insulin này sử dụng và do đó có thể thay đổi khi phác đồ điều trị thay đổi.
Những tình trạng có thể làm cho dấu hiệu cảnh báo sớm tình trạng hạ đường huyết khác đi hoặc ít rõ ràng hơn bao gồm: chỉ số đường huyết cải thiện nhiều, bệnh nhân cao tuổi, đái tháo đường thời gian dài, liệu pháp insulin tăng cường, bệnh thần kinh đái tháo đường, các thuốc như thuốc chẹn beta, hoặc sau khi chuyển từ insulin nguồn gốc động vật sang insulin người.
Chỉnh liều cũng có thể cần thiết nếu bệnh nhân tăng hoạt động thể chất hoặc thay đổi kế hoạch ăn uống thường ngày. Tập thể dục ngay sau bữa ăn có thể làm tăng nguy cơ hạ đường huyết.
So với insulin người hòa tan, hạ đường huyết nếu xảy ra sau khi tiêm analog tác dụng nhanh có thể sẽ xảy ra sớm hơn.
Tình trạng hạ đường huyết hay tăng đường huyết nếu không được điều chỉnh có thể gây ra mất ý thức, hôn mê hoặc tử vong.
Nhu cầu Insulin có thể thay đổi khi bị ốm hoặc các rối loạn cảm xúc.
Không dùng Apidra Solostar quá hạn sử dụng được ghi rõ trên hộp và trên nhãn.
Ngày hết hạn sử dụng là ngày cuối của tháng in trên bao bì.
Tác dụng không mong muốn (Tác dụng phụ)
Tóm tắt các thông tin an toàn:
Hạ đường huyết là phản ứng có hại thường xảy ra nhất của liệu pháp insulin, có thể xảy ra khi liêu insulin quá cao so với nhu cầu về insulin.
Danh mục bảng của các phản ứng bắt lợi:
Các phản ứng bất lợi liên quan sau đây từ các cuộc điều tra lâm sàng được liệt kê theo phân loại hệ cơ quan và thứ tự tần suất giảm dần (rất phổ biến: ≥ 1/10, phổ biến: ≥ 1/100 đến < 1/10, không phổ biến: ≥ 1/1.000 đến < 1/100, hiếm: ≥1/10.000 đến < 1/1.000, rất hiếm: < 1/10.000).
Trong mỗi nhóm tần số, các phản ứng bất lợi được trình bày theo thứ tự độ nghiêm trọng giảm dần.
Phân theo hệ cơ quan MedDRA
|
Rất phổ biến
|
Phổ biến
|
Không phổ biến
|
Hiếm
|
Rất hiếm
|
Các rối loạn dinh dưỡng và chuyển hóa
|
Hạ đường huyết
|
|
|
|
Tăng đường huyết (có thể dẫn đến nhiễm toan ceton do đái tháo đường(1))
|
Các rối loạn da và mô dưới da
|
|
Các phản ứng tại vị trí tiêm
Các phản ứng quá mẫn cục bộ
|
|
Loạn dưỡng mỡ
|
|
Các rối loạn chung và các phản ứng tại vị trí tiêm
|
|
|
Các phản ứng quá mẫn toàn thân
|
|
|
(1) Dung dịch tiêm Apidra SoloStar 100 đơn vị/ml trong lọ thuốc: Hầu hết các trường hợp có liên quan đến thao tác sai hoăc hệ thống bơm bi lỗi khi sử dung Apidra với CSII.
|
Mô tả các phản ứng không mong muốn chọn lọc:
Các rối loạn dinh dưỡng và chuyển hóa:
Triệu chứng hạ đường huyết thương xảy ra đột ngột. Các triệu chứng này có thể bao gồm toát mồ hôi lạnh, da tím tái, mệt lả, dễ hoảng sợ hoặc run rẩy, lo âu, mệt hay yếu bất thường, lú lẫn, khó tập trung, buồn ngủ, đói lả, thay đổi thị giác, nhức đầu, buồn nôn và tim loạn nhịp.
Hạ đường huyết có thể trở nên nghiêm trọng, có thể dẫn đến hôn mê và/hoặc co giật và có thể kêt cục là suy giảm chức năng não tạm thời hoặc vĩnh viễn hoặc thậm chí tử vong
Các rối loạn da và mô dưới da:
Các phản ứng quá mẫn cục bộ (đỏ da, sưng tấy và ngứa tại vị trí tiêm) có thể xảy ra trong quá trình điều trị với insulin. Các phản ứng này thường nhất thời (vài ngày đến vài tuần) và thường biến mất trong quá trình tiếp tục điều trị. Trong một vài trường hợp, những phản ứng này có thể liên quan đến lý do khác ngoài insulin, như là quá mẫn với chất làm sạch da hoặc tiêm không đúng cách.
Loạn dưỡng mỡ có thể xảy ra tại vị trí tiêm và trì hoãn việc hấp thu insulin do luân phiên thay đổi vị trí tiêm trong cùng một vùng da.
Các rốl loạn chung và phản ứng tại vị trí tiêm:
Phản ứng quá mẫn toàn thân có thể bao gồm nổi mề đay, tức ngực, khó thở, ngứa và viêm da do dị ứng. Các trường hợp nặng của dị ứng toàn thân, bao gồm sốc phản vệ, có thể đe dọa tính mạng.
Báo cáo các phản ứng bắt lợi nghi ngờ:
Báo cáo các phản ứng bất lợi nghi ngờ sau khi thuốc được cấp phép là rất quan trọng. Nó cho phép tiếp tục theo dõi cân bằng lợi ích/nguy cơ của thuốc. Các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ được yêu cầu báo cáo bất kỳ phản ứng bất lợi nghi ngờ nào thông qua hệ thống báo cáo quốc gia được liệt kê trong Phụ lục V.
Thông báo ngay cho bác sỹ hoặc dược sỹ những phản ứng có hại gặp phải khi sử dụng thuốc.
Tương tác với các thuốc khác
Các nghiên cứu về tương tác dược động học chưa được thực hiện. Dựa trên kinh nghiệm thực tế từ những chế phẩm thuốc tương tự, các tương tác dược động học trên lâm sàng không chắc xảy ra.
Một số chất ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và có thể cần chỉnh liều insulin glulisine cũng như cần theo dõi chặt chẽ.
Các chất có thể làm tăng hiệu quả giảm glucose máu và làm tăng độ nhạy cảm với hạ đường huyết bao gồm: các thuốc trị đái tháo đường dạng uống, thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE), disopyramide, fibrates, fluoxetine, chất ức chế monoamin oxidase (MAO), pentoxifylline, propoxyphen, salicylate và kháng sinh sulfonamide.
Các chất làm giảm hiệu quả giảm glucose máu bao gồm corticosteroid, danazol, diazoxide, thuốc lợi tiểu, glucagon, isoniazid, các dẫn xuất phenothiazin, somatropin, các thuốc giống giao cảm (ví dụ epinephrine (adrenaline), salbutamol, terbutaline), hormone tuyến giáp, các estrogen và các progestogen (ví dụ trong thuốc uống tránh thai), chất ức chế protease và các sản phẩm chống loạn thần không điển hình (ví dụ: clozapine và olanzapine).
Thuốc chẹn beta, clonidin, muối lithium hoặc rượu có thể làm tăng hoặc làm suy yếu tác động giảm glucose máu của insulin. Pentamidine có thể gây hạ đường huyết, đôi khi có thể tiếp theo là tăng đường huyết. Ngoài ra, dưới ảnh hưởng của các sản phẩm giống giao cảm như thuốc chẹn beta, clonidin, guanethidine và reserpine, các dấu hiệu của điều hòa kháng adrenergic có thể bị giảm hoặc không có.
Quá liều
Triệu chứng:
Hạ đường huyết có thể xảy ra do hoạt động insulin vượt quá thức ăn đưa vào cơ thể và tiêu thụ năng lượng hoặc cả hai lý do.
Không có dữ liệu cụ thể liên quan đến việc quá liều insulin glulisine. Tuy nhiên, hạ đường huyết có thể phát triển qua các giai đoạn tiếp theo.
Điều trị:
Các cơn hạ đường huyết nhẹ có thể được điều trị bằng ăn uống glucose hay các sản phẩm chứa đường. Vì vậy, bệnh nhân đái tháo đường luôn nên mang theo đường cục, thức ăn ngọt, bánh quy hay nước trái cây ngọt.
Các cơn hạ đường huyết nghiêm trọng, khi mà bệnh nhân trở nên mất ý thức, co giật hoặc suy giảm thần kinh có thể được điều trị bằng cách tiêm bắp hay tiêm dưới da glucagon (0,5 mg đến 1 mg) bởi một người đã được hướng dẫn phù hợp, hoặc bằng cách tiêm tĩnh mạnh glucose bởi nhân viên y tế. Nếu bệnh nhân không đáp ứng với glucagon trong vòng 10 đến 15 phút, cũng phải tiêm tĩnh mạch glucose.
Khi bệnh nhân có ý thức trở lại, khuyến cáo nên ăn carbohydrat để ngăn ngừa tái phát.
Sau khi tiêm glucagon, bệnh nhân nên được theo dõi ở bệnh viện để tìm ra nguyên nhân gây hạ đường huyết nặng và ngăn ngừa các cơn tương tự.
Lái xe và vận hành máy móc
Khả năng tập trung và phản ứng của bệnh nhân có thể bị giảm sút do hạ đường huyết hoặc tăng đường huyết hoặc, ví dụ, do suy giảm thị lực. Điều này có thể gây nguy hiểm trong các tình huống mà các khả năng này có tầm quan trọng đặc biệt (ví dụ: lái xe hoặc sử dụng máy móc).
Nên khuyên bệnh nhân thận trọng để tránh tình trạng hạ đường huyết trong khi lái xe. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người giảm hoặc không nhận thức được triệu chứng cảnh báo về hạ đường huyết hoặc có tình trạng hạ đường huyết thường xuyên. Cân nhắc liệu có nên lái xe hay sử dụng máy móc trong những trường hợp này hay không.
Thai kỳ và cho con bú
Phụ nữ có thai:
Không có thông tin hoặc thông tin hạn chế (ít hơn 300 kết cục thai kỳ) từ việc sử dụng insulin glulisine ở phụ nữ có thai.
Nghiên cứu về khả năng sinh sản ở động vật không cho thấy bất kỳ khác biệt nào giữa insulin glulisine và insulin người đối với thai kỳ, sự phát triển phôi thai/bào thai, quá trình sinh nở hay sự phát triển sau sinh. Nên thận trọng khi sử dụng cho phụ nữ có thai, cần theo dõi kiểm soát đường huyết cẩn thận.
Điều quan trọng đối với bệnh nhân có tiền sử mắc đái tháo đường hoặc có đái tháo đường thai kỳ là duy trì kiểm soát chuyển hóa tốt trước khi mang thai và trong suốt thai kỳ. Nhu cầu về insulin có thể giảm trong tam cá nguyệt thứ nhất, và thường tăng lên trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba. Ngay sau khi sinh, nhu cầu insulin giảm nhanh chóng.
Bệnh nhân đái tháo đường phải thông báo cho bác sỹ nếu đang mang thai hoặc có ý định mang thai.
Phụ nữ đang cho con bú:
Không rõ liệu insulin glulisine có bài tiết vào sữa mẹ hay không, nhưng thông thường insulin không vào sữa mẹ và cũng không được hấp thu sau khi trẻ bú sữa.
Người mẹ đang cho con bú có thể cần phải điều chỉnh liều insulin và chế độ ăn.
Khả năng sinh sản:
Các nghiên cứu về khả năng sinh sản trên động vật dùng insulin glulisine không cho thấy bất kỳ tác động bất lợi nào trên khả năng sinh sản.
Bảo quản
Bút tiêm Apidra SoloStar chưa sử dụng:
Bảo quản trọng tủ lạnh (2°C - 8°C). Không được để đông lạnh.
Không đặt gần ngăn đá hoặc vỉ đá trong tủ lạnh.
Giữ nguyên bút tiêm nạp sẵn SoloStar trong vỏ hộp để tránh ánh sáng.
Bút tiêm Apidra SoloStar đang sử dụng:
Sau lần sử dụng đầu tiên, bút tiêm nạp sẵn có thể bảo quản tối đa 4 tuần ở nhiệt độ không quá 25°C, tránh sức nóng và ánh sáng trực tiếp.
Bút tiêm đang sử dụng không nên bảo quản trong tủ lạnh.
Sau mỗi lần tiêm, nắp bút phải được đậy lại vào bút để bảo vệ khỏi ánh sáng.
Quy cách đóng gói
Hộp 5 bút tiêm nạp sẵn x 3ml (300 đơn vị).
Hạn dùng
24 tháng kể từ ngày sản xuất.
Dược lực học
Nhóm dược lý - trị liệu: Thuốc được sử dụng trong bệnh đái tháo đường, insulin và các chất tương tự (analog) dạng tiêm, tác dụng nhanh.
Mã ATC: A10AB06.
Cơ chế tác động:
Insulin glulisine là một chất tương tự insulin người (analog) tái tổ hợp có cùng hoạt lực với insulin người regular (thường). Insulin glulisine có khởi phát tác dụng nhanh hơn và thời gian tác dụng ngắn hơn insulin người regular.
Hoạt tính chính của các insulin và insulin analog, bao gồm insulin glulisine, là kiểm soát chuyển hóa glucose. Insulin làm giảm mức glucose máu bằng cách kích thích thu nhận glucose ngoại biên, đặc biệt ở cơ vân và mỡ, và bằng cách ức chế sản xuất glucose ở gan. Insulin ức chế sự phân giải lipid trong tê bào mỡ, ức chê sự phân giải protein và gia tăng tổng hợp protein.
Các nghiên cứu ở người tình nguyện khỏe mạnh và bệnh nhân đái tháo đường cho thấy insulin glulisine có khởi phát tác dụng nhanh hơn và thời gian tác dụng ngắn hơn insulin người regular khi được tiêm dưới da. Khi tiêm dưới da insulin glulisine, hoạt tính làm giảm glucose sẽ bắt đầu trong vòng 10 - 20 phút. So với tiêm dưới da, người ta nhận thấy dùng đường tĩnh mạch có khởi phát tác dụng nhanh hơn, thời gian tác dụng ngắn hơn, và đáp ứng đỉnh nhiều hơn. Hoạt tính làm giảm glucose của insulin glulisine và insulin người regular có hoạt lực ngang nhau khi dùng đường tĩnh mạch.
Một đơn vị insulin glulisine có cùng hoạt tính giảm glucose như là một đơn vị insulin người regular.
Tỷ lệ thuận liều lượng:
Trong một nghiên cứu ở 18 bệnh nhân nam mắc đái tháo đường typ 1 từ 21 tuổi đến 50 tuổi, insulin glulisine cho thấy hiệu quả giảm glucose tỷ lệ thuận với liều trong khoảng liều điều trị từ 0,075 đến 0,15 đơn vị/kg, và hiệu quả giảm glucose thấp hơn sự tăng tỷ lệ thuận (của liều) với liều từ 0,3 đơn vị/kg trở lên, giống như ở insulin người.
Insulin glulisine cho tác dụng nhanh gần gấp đôi so với insulin người regular, và kết thúc hiệu quả giảm glucose sớm hơn gần 2 giờ so với insulin người regular.
Một nghiên cứu phase I ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 đánh giá hồ sơ giảm glucose của insulin glulisine và insulin người regular dùng dưới da ở liều 0,15 đơn vị/kg, tại các thời điểm khác nhau liên quan với bữa ăn tiêu chuẩn trong 15 phút. Dữ liệu cho thấy insulin glulisine tiêm 2 phút trước bữa ăn cho hiệu quả kiểm soát đường huyết sau ăn tương tự với insulin người regular tiêm 30 phút trước bữa ăn. Khi cùng tiêm 2 phút trước bữa ăn, insulin glulisine cung cấp hiệu quả kiểm soát (đường huyết) sau ăn tốt hơn insulin người regular. Tiêm insulin glulisine 15 phút sau khi bắt đầu bữa ăn cho hiệu quả kiểm soát đường huyết tương tự insulin người regular tiêm 2 phút trước ăn (tham khảo hình 1).
Hình 1: Trung bình hiệu quả giảm glucose trong 6 giờ ở 20 bệnh nhân đái tháo đường typ 1. Insulin glulisine được tiêm 2 phút trước khi bắt đầu bữa ăn (GLULISINE pre) so với insulin người regular được tiêm 30 phút trước khi bắt đầu bữa ăn (REGULAR 30 min) (hình 1A) và so với insulin người regular được tiêm 2 phút trước bữa ăn (REGULAR pre) (hình 1B). Insulin glulisine được tiêm 15 phút sau khi bắt đầu bữa ăn (GLULISINE post) so với insulin người regular được tiêm 2 phút trước khi bắt đầu bữa ăn (REGULAR pre) (hình 1C). Trên trục x (trục hoành), số 0 (mũi tên) là thời điểm bắt đầu bữa ăn trong 15 phút.
Béo phì:
Một nghiên cứu pha I tiến hành với insulin glulisine, lispro và insulin người regular trong dân số béo phì cho thấy insulin glulisine vẫn duy trì đặc tính tác động nhanh. Trong nghiên cứu này, thời gian đến 20% tổng diện tích dưới đường cong (AUC) và AUC (0 - 2 giờ) đại diện cho tác động làm giảm glucose sớm tương ứng là 114 phút và 427 mg/kg đối với insulin glulisine, 121 phút và 354 mg/kg đối với lispro, 150 phút và 197 mg/kg đối với insulin người regular (tham khảo hình 2).
Hình 2: Tỷ lệ truyền glucose (GIR) sau khi tiêm dưới da 0,3 đơn vị/kg insulin glulisine (GLULISINE) hoặc insulin lispro (LISPRO) hoặc insulin người regular (REGULAR) trong dân số béo phì.
Một nghiên cứu pha I khác với insulin glulisine và insulin lispro ở dân số không mắc đái tháo đường gồm 80 đối tượng có chỉ số khối cơ thể nằm trong một khoảng rộng (18 - 46 kg/m2) đã chứng minh rằng nhìn chung tác động nhanh vẫn duy trì trong suốt một khoảng rộng chỉ số khối (BMI), trong khi hiệu quả làm giảm glucose toàn phần sẽ giảm khi béo phì tăng.
Trung bình tổng GIR AUC giữa 0 - 1 giờ là 102 ± 75 mg/kg và 158 ± 100 mg/kg và 112,3 ± 70,8 mg/kg với tương ứng 0,2 và 0,4 đơn vị/kg insulin lispro.
Một nghiên cứu pha I trên 18 bệnh nhân béo phì mắc đái tháo đường typ 2 (BMI 35 - 40 kg/m2) với insulin glulisine và insulin lispro [90% Cl: 0,81, 0,95 (p≤ 0.01)] cho thấy insulin glulisine kiểm soát hiệu quả các thay đổi glucose máu sau ăn trưa trong ngày.
Hiệu quả và an toàn trên lâm sàng:
Đái tháo đường typ 1 - Người lớn:
Một nghiên cứu pha III 26 tuần so sánh insulin glylisine với insulin lispro khi tiêm dưới da một thời gian ngắn (0 - 15 phút) trước bữa ăn ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 sử dụng insulin glargine làm insulin nền, inlusin glulisine tương đương với insulin lispro về kiểm soát đường huyết, thể hiện qua các thay đổi về hemoglobin glycat hóa (biểu hiện là HbA1c tương đương) từ lần khám ban đầu đến lúc kết thúc nghiên cứu. Các giá trị glucose máu tự theo dõi cho kết quả tương đương. Không cần tăng liều insulin nền với insulin glulisine, ngược lại với insulin lispro.
Một nghiên cứu lâm sàng phase III 12 tuần thực hiện ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 dùng insulin glargine khi điều trị nền cho thấy việc tiêm insulin glulisine ngay sau bữa ăn cho hiệu quả tương đương với tiêm insulin glulisine ngay trước bữa ăn (0 - 15 phút) hay insulin người regular (30 - 45 phút).
Trong quần thể can thiệp (per-protocol) của nghiên cứu, nhóm dùng glulisine trước bữa ăn làm giảm GHb nhiều hơn rõ rệt so với nhóm dùng insulin người regular.
Đái tháo đường typ 1 - Bệnh nhi:
Một nghiên cứu pha III 26 tuần so sánh insulin glulisine với insulin lispro khi tiêm dưới da một thời gian ngắn (0 - 15 phút) trước bữa ăn ở trẻ em (4 - 5 tuổi: n = 9; 6 - 7 tuổi: n=32 và 8 - 11 tuổi: n=149) và trẻ vị thành niên (12 - 17 tuổi: n=382) mắc đái tháo đường typ 1 sử dụng insulin nền là inlusin glargine hoặc NPH. Insulin glulisine tương đương với insulin lispro về kiểm soát đường huyết thể hiện qua các thay đổi về hemoglobin glycat hóa (GHb biểu hiện là HbA1c tương đương) từ lần khám ban đầu đến lúc kết thúc nghiên cứu qua các giá trị đường huyết tự theo dõi.
Hiện chưa đủ thông tin lâm sàng về sử dụng Apidra ở trẻ em dưới 6 tuổi.
Đái tháo đường typ 2 - Người lớn:
Một nghiên cứu lâm sàng 26 tuần pha III theo sau bởi một nghiên cứu an toàn mở rộng 26 tuần được thực hiện để so sánh tiêm dưới da insulin glulisine (0 - 15 phút trước bữa ăn) với insulin người regular (30 - 45 phút trước bữa ăn) ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 dùng insulin nền là NPH. Trung bình chỉ số khối cơ thể của bệnh nhân (BMI) là 34,55 kg/m2. Insulin glulisine cho thấy tương đương với insulin người regular trong các thay đổi về hemoglobin glycat hóa (biểu hiện là HbA1c tương đương) từ lần khám ban đầu đến thời điểm 6 tháng (-0,46% đối với insulin glulisine và -0,30% đối với insulin người regular, p=0,0029) và từ lần khám ban đầu đến thời điểm 12 tháng (-0,23% đối với insulin glulisine và -0,13% đối với insulin người regular, khác biệt không có ý nghĩa). Trong nghiên cứu này, phần lớn bệnh nhân (79%) đã trộn insulin có tác dụng ngắn với insulin NPH ngay trước khi tiêm; 58% đối tượng bệnh nhân đã sử dụng các thuốc giảm glucose máu dạng uống tại thời điểm phân ngẫu nhiên và đã được hướng dẫn để dùng tiếp với liều như cũ.
Chủng tộc và giới tính:
Trong các nghiên cứu có kiểm soát ở người lớn, insulin glulisine không cho thấy khác biệt về an toàn và hiệu quả trong các phân tích dưới nhóm dựa trên chủng tộc và giới tính.
Dược động học
Ở insulin glulisine, sự thay đổi acid amin asparagine tại vị trí B3 của insulin người thành lysine và lysine tại vị trí B29 thành acid glutamic giúp hấp thu nhanh.
Trong một nghiên cứu với 18 bệnh nhân nam mắc đái tháo đường typ 1, từ 21 tuổi đến 50 tuổi, insulin glulisine cho thấy tỷ lệ thuận với liều về phơi nhiễm sớm, tối đa và tổng cộng ở khoảng liều 0,075 - 0,4 đơn vị/kg.
Hấp thu và sinh khả dụng:
Hồ sơ dược động học ở người tình nguyện khỏe mạnh và bệnh nhân đái tháo đường (typ 1 hoặc 2) cho thấy insulin glulisine hấp thu nhanh gần gấp đôi với nồng độ đỉnh cao hơn gần gấp 2 lần so với insulin người regular.
Trong một nghiên cứu trên bệnh nhân đái tháo đường typ 1 sau khi tiêm dưới da 0,15 đơn vị/kg, đối với insulin glulisine Tmax là 55 phút và Cmax là 82 ± 1,3 μ đơn vị/ml, so với Tmax 82 phút và Cmax 46 ± 1,3 μ đơn vị/ ml đối với insulin người regular. Trung bình thời gian lưu trú của insulin glulisine ngắn hơn (98 phút) so với insulin người regular (161 phút) (tham khảo hình 3).
Hình 3: Hồ sơ dược động học của insulin glulisine và insulin người regular ở bệnh nhân đái tháo đường typ 1 sau liều 0,15 đơn vị/kg.
Trong một nghiên cứu ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 2 sau khi dùng dưới da 0,2 đơn vị/kg insulin glulisine, Cmax là 91 μ đơn vị/ml với khoảng tứ phân vị từ 78 đến 104 μ đơn vị/ml. Hồ sơ nồng độ - thoiwg gian giống nhau khi tiêm dưới da insulin glulisine vào bụng, cơ delta và đùi, với sự hấp thu hơi nhanh hơn khi tiêm vào bụng so với đùi. Sự hấp thu vào vị trí cơ delta nằm ở mức giữa (tham khảo mục Cách dùng). Sinh khả dụng tuyệt đối (70%) của insuline glulisine giống nhau giữa các vị trí tiêm và khả năng dao động trong mỗi cá thể thấp (11% cv). Tiêm phóng tĩnh mạch insuline glulisine dẫn đến chỉ số phơi nhiễm toàn thân cao hơn so với tiêm dưới da, với Cmax cao hơn gần 40 lần.
Béo phì:
Một nghiên cứu pha 1 khác, với insulin glulisine và insulin lispro ở dân số không mắc đái tháo đường với 80 đối tượng nghiên cứu có khoảng dao động rộng về chỉ số khối (18 - 46 kg/m2) đã cho thấy sự hấp thu nhanh và phơi nhiễm tổng cộng nhìn chung được duy trì xuyên suốt khoảng rộng chỉ số khối.
Thời gian tới 10% phơi nhiễm INS tổng cộng đạt được sớm hơn gần 5 - 6 phút với insulin glulisine.
Phân bố vả thải trừ:
Sự phân bố và thải trừ của insulin glulisine và insulin người regular ở người sau khi dùng tĩnh mạch là tương tự nhau với thể tích phân bố 13 L và 22 L, và thời gian bán hủy là 13 phút và 18 phút tương ứng.
Sau khi tiêm dưới da, insulin glulisine được đào thải nhanh chóng hơn insulin người regular, với thời gian bán hủy thấy được là 42 phút so với 86 phút. Trong một phân tích nghiên cứu cắt ngang của insulin glulisine ở cả người khỏe mạnh và bệnh nhân đái tháo đường typ 1 hoặc typ 2, thời gian bán hủy thấy được nằm trong khoảng từ 37 đến 75 phút (khoảng tứ phân vị)
Insulin glulisine cho thấy ít gắn kết với protein huyết tương, tương tự như insulin người.
Các nhóm dân số đặc biệt:
Suy thận: Trong một nghiên cứu lâm sàng trên đối tượng không mắc đái tháo đường có chức năng thận nằm trong khoảng rộng (CrCl >80 ml/phút, 30 - 50 ml/phút, < 30 ml/phút), các đặc tính tác dụng nhanh của insulin glulisine nhìn chung được duy trì. Tuy nhiên, nhu cầu về insulin có thể giảm khi bệnh nhân bị suy thận.
Suy gan: Đặc tính dược động học chưa được nghiên cứu ở bệnh nhân suy gan.
Người lớn tuổi: Có rất ít dữ liệu dược động học đối với bệnh nhân lớn tuổi mắc đái tháo đường.
Trẻ em và trẻ vị thành niên: Đặc tính dược động học và dược lực học của insulin glulisine được nghiên cứu ở trẻ em (7 - 11 tuổi) và trẻ vị thành niên (12 - 16 tuổi) mắc đái tháo đường typ 1. Insulin glulisine được hấp thu nhanh ở cả hai nhóm, với Tmax và Cmax tương tự người trưởng thành (tham khảo mục Liều dùng, Cách dùng).
Khi tiêm thuốc ngay trước bữa ăn thử, Insulin glulisine kiểm soát đường huyết sau ăn tốt hơn insulin người regular, tương tự người trưởng thành (xem mục Đặc tính dược lực học). Thay đổi glucose (AUC0-6) là 641 mg.h.dl1 đối với insulin glulisine và 801 mg.h.dl1 đối với insulin người regular.
Đặc điểm
Dung dịch tiêm trong bút tiêm nạp sẵn.
Dung dịch tiêm, không màu và trong suốt.
Thông tin khác
TĂNG ĐƯỜNG HUYẾT VÀ HẠ ĐƯỜNG HUYẾT
Hãy luôn mang theo bên mình những thứ sau:
- Thực phẩm chứa đường, ví dụ: những viên đường dextrose hoặc đồ uống có đường (tối thiểu 20 gram).
- Thẻ thông tin để những người khác biết bạn có bệnh đái tháo đường.
TĂNG ĐƯỜNG HUYẾT (nồng độ đường trong máu cao):
Nếu đường huyết của bạn quá cao (tăng đường huyết), có thể bạn đã không tiêm đủ insulin. Các lý do có thể xảy ra tăng đường huyết:
Ví dụ:
- Bạn đã không tiêm insulin được chỉ định hoặc không tiêm đủ.
- Thuốc của bạn trở nên kém hiệu quả - ví dụ: do bảo quản không đúng cách.
- Bạn ít tập thể dục hơn thường lệ.
- Bạn đang bị stress - ví dụ: đau buồn, phấn khích.
- Bạn bị chấn thương, phải trải qua phẫu thuật, nhiễm trùng hoặc sốt.
- Bạn đã hoặc đang dùng một số loại thuốc khác (xem mục “Tương tác, tương kỵ của thuốc”).
Các triệu chứng cảnh báo tăng đường huyết:
Khát nước, tăng nhu cầu đi tiểu, mệt, da khô, mặt đỏ, chán ăn, hạ huyết áp, tim đập nhanh, xét nghiệm nước tiểu có glucose và thể ceton. Đau dạ dày, thở nhanh và sâu, buồn ngủ hoặc bất tỉnh (mất tri giác) có thể là những dấu hiệu của một tình trạng trầm trọng (nhiễm toan ceton) do thiếu insulin.
Cần làm gì khi bạn bị tăng đường huyết?
Hãy đo đường huyết của bạn và xét nghiệm tìm thể ceton trong nước tiểu ngay khi xảy ra bất kỳ dấu hiệu nào ở trên. Tình trạng tăng đường huyết nặng hoặc nhiễm toan ceton luôn cần sự điều trị của bác sỹ, thường là trong bệnh viện.
HẠ ĐƯỜNG HUYẾT (nồng độ đường trong máu thấp):
Nếu đường huyết của bạn giảm quá thấp, bạn có thể trở nên mất ý thức. Hạ đường huyết nghiêm trọng có thể gây cơn đau tim hoặc tổn thương não và có thể đe dọa tính mạng. Bạn nên học cách nhận biết các dấu hiệu khi đường huyết giảm quá thấp - như vậy bạn mới có thể xử trí hợp lý.
Các lý do có thể xảy ra hạ đường huyết:
Ví dụ:
- Bạn tiêm quá nhiều insulin.
- Bạn bỏ bữa hoặc dùng bữa muộn.
- Bạn ăn không đủ, hoặc ăn các thức ăn chứa ít carbohydrat hơn bình thường (đường và các chất tương tự đường được gọi là carbohydrat; tuy nhiên, chất tạo ngọt nhân tạo KHÔNG phải là carbohydrat).
- Bạn bị mất carbohydrat do nôn hoặc tiêu chảy.
- Bạn uống rượu - đặc biệt khi không ăn nhiều.
- Bạn tập thể dục nhiều hơn thường lệ hoặc chuyển sang một dạng hoạt động thể lực khác.
- Bạn đang hồi phục sau chấn thương, phẫu thuật hoặc một stress khác.
- Bạn đang hồi phục sau một cơn bệnh hoặc cơn sốt.
- Bạn đang dùng hoặc vừa ngưng dùng một số thuốc khác (xem mục “Tương tác, tương kỵ của thuốc”).
Hạ đường huyết cũng có nhiều khả năng xảy ra nếu:
- Bạn vừa mới bắt đầu điều trị insulin hoặc thay đổi sang một chế phẩm insulin khác.
- Đường huyết của bạn ở mức gần như bình thường hoặc không ổn định.
- Bạn thay đổi vùng da tiêm insulin - ví dụ từ vùng đùi chuyển sang vùng cánh tay.
- Bạn có bệnh gan hoặc thận nặng, hoặc một số bệnh khác như nhược giáp.
Các triệu chứng cảnh báo hạ đường huyết:
Đối với cơ thể: những ví dụ về dấu hiệu cho thấy đường huyết của bạn đang giảm quá nhiều hoặc quá nhanh gồm có: vã mồ hôi, da ẩm ướt, lo lắng, tim đập nhanh, tăng huyết áp, đánh trống ngực và loạn nhịp tim. Những dấu hiệu này thường xảy ra trước khi có triệu chứng cho thấy nồng độ đường giảm thấp ở não.
Đối với não: triệu chứng cho thấy nồng độ đường giảm thấp ở não gồm có: nhức đầu, cảm giác đói cồn cào, cảm giác buồn nôn hoặc nôn, cảm giác mệt mỏi, buồn ngủ, bứt rứt, rối loạn giấc ngủ, ưa gây gổ, khó tập trung, chậm phản ứng, trầm uất, lơ mơ, nói khó (đôi khi mất hẳn tiếng nói), rối lọạn thị giác, run, yếu liệt, cảm giác châm chích, tê rần hoặc cảm giác kim châm ở vùng miệng, hoa mắt, mất kiềm chế, không thể tự chăm sóc bản thân, co giật, mất tri giác.
Những triệu chứng đầu tiên cảnh báo hạ đường huyết («triệu chứng cảnh báo ») có thể thay đổi, ít rõ ràng hơn hoặc hoàn toàn không có nếu bạn:
- Là người cao tuổi.
- Bị bệnh đái tháo đường đã lâu.
- Có một số bệnh lý thần kinh do đái tháo đường (gọi là “bệnh lý thần kinh tự chủ do đái tháo đường”).
- Gần đây có hạ đường huyết (ví dụ: ngày hôm trước), hoặc nếu hạ đường huyết phát triển từ từ.
- Đường huyết của bạn gần mức “bình thường” hoặc ít nhất là được cải thiện đáng kể gần đây.
- Đã hoặc đang dùng một số thuốc khác (xem mục “Tương tác, tương kỵ của thuốc”).
Trong những trường hợp đó, bạn có thể bị hạ đường huyết nặng (và thậm chí bị bất tỉnh) trước khi bạn kịp ý thức được vấn đề đang xảy ra. Hãy làm quen với những triệu chứng cảnh báo của riêng bạn. Nếu cần, kiểm tra đường huyết thường xuyên hơn có thể giúp bạn nhận ra những cơn hạ đường huyết nhẹ mà có thể bị bỏ qua. Nếu bạn thấy khó nhận biết các triệu chứng cảnh báo của mình, nên tránh những tình huống (ví dụ lái xe) mà bạn có thể gây nguy hiểm cho bản thân hoặc cho người khác vì hạ đường huyết.
Cần phải làm gì khi hạ đường huyết?
- Không được tiêm insulin. Dùng ngay 15 - 20 gram đường, ví dụ glucose, đường viên hoặc nước ngọt. Lưu ý, các chất tạo ngọt nhân tạo và thực phẩm có chứa chất tạo ngọt nhân tạo (như thức uống dành cho người ăn kiêng) không giúp điều trị hạ đường huyết.
- Sau đó bạn có thể ăn một món gì đó (ví dụ: bánh mì hoặc mì Ý) để tăng mức đường huyết của bạn suốt một thời gian dài hơn. Bác sỹ hoặc điều dưỡng nên thảo luận điều này trước với bạn.
- Nếu tình trạng hạ đường huỵết tái diễn, dùng tiếp 15 đến 20 gram đường.
- Báo ngay cho bác sỹ biết nếu bạn không thể kiểm soát được tình trạng hạ đường huyết hoặc nếu tình trạng này tái diễn.
Người khác nên làm gì khi bạn bị hạ đường huyết?
Hãy nói với người nhà, bạn bè và đồng nghiệp gần gũi của bạn điều sau :
Nếu bạn không thể nuốt hoặc nếu bạn bất tỉnh (mất tri giác), bạn sẽ cần một mũi tiêm glucose hoặc glucagon (một thuốc làm tăng lượng đường trong máu). Những mũi tiêm này cần được thực hiện ngay cả khi không biết chắc bạn có bị hạ đường huyết hay không.
Nên xét nghiệm đường huyết ngay sau khi dùng glucose để kiểm tra xem bạn có thật sự bị hạ đường huyết không.